Thực đơn
Khalip Những triều đại khalipBốn vị khalip đầu tiên được coi là chính thống vì được đa số chi phái công nhận. Trong tiếng Ả Rập họ được gọi là "Rashidun"[2] ("được dẫn dắt đúng đắn") vì được tin là những người tuân theo đúng kinh Koran, và làm đúng theo đường lối cư xử (sunnah) của nhà tiên tri Muhammad của đạo Hồi. Bốn vị khalip này là:
Các vị khalip này đều đóng đô ở Medina, trên lãnh thổ nguyên thủy của người Ả Rập, ngoại trừ vị khalip cuối là Ali dời đô tới Kufa (ngày nay thuộc Iraq).
Đến khalip Ali thì có sự chia rẽ, vùng Iraq và Iran ngày nay theo khalip Ali, từ Syria trở về tây thì theo tổng đốc Syria là Mu'Awiya. Sau cái chết của khalip Ali năm 661, Mu'Awiya thống nhất lãnh thổ và lập nhà Omeyyad.
Nhà Omeyyad, (cũng viết là "Umayyad") bỏ tuyển cử, truyền ngôi theo phụ hệ, và dần dần biến quốc gia Hồi giáo thành đế quốc Ả Rập. Lãnh thổ tiếp tục bành trướng đến Trung Á, đồng bằng sông Ấn ở phía đông và Tây Ban Nha ở phía tây. Đó là triều đại khalip có lãnh thổ rộng lớn nhất.
Hệ phái Shia, của những người tuyệt đối trung thành với khalip Ali, tuy sống dưới sự cai trị của nhà Omeyyad, nhưng không coi nhà này là chính thống. Hệ phái Sunni, tuy rất quý mến khalip Ali, nhưng vẫn tạm công nhận nhà Omeyyad. Do sự công nhận của hệ phái Sunni, với khoảng 90% tín đồ, nhà Omeyyad được coi là có độ chính thống cao, và được xếp nối tiếp theo bốn vị khalip kể trên.
Nhà Omeyyad đóng đô ở Damas, nay là thủ đô Syria.Từ thời nhà Omeyyad trở đi, do sự truyền ngôi theo phụ hệ, nhiều khalip chỉ là những ông vua thừa hưởng ngôi báu của cha ông, mà không có tác phong của một nhà lãnh đạo tinh thần. Chức khalip tuy có người xưng, và thường có tranh chấp, nhưng nhiệm vụ lãnh đạo giáo dân thì thực sự ít khi có ai làm.
Nhà Abbas nổi lên, đánh bại và thay thế nhà Omeyyad. Thời này đế quốc Ả Rập được một thời hoàng kim của thanh bình, thịnh trị và văn minh vào đời các khalip Al-Mansur, Harun Al-Rashid và Al-Mamun.
Thiếu người tài năng lãnh đạo, nhà Abbas suy dần. Các quan tổng đốc tỉnh dần dần trở thành các triều đại cha truyền con nối, và thôn tính lẫn nhau. Ở một cấp bậc thấp hơn, các 'êmia' cũng ngày càng tự lập. Vào đầu thập niên 940, loạn lớn, nhà Abbas tưởng đã mất ngôi, nhưng có ba anh em nhà Buya đứng ra dẹp loạn và vãn hồi an ninh. Nhà Buya được phong chức Đại Êmia và từ đó nắm thực quyền trong triều. Nhà Abbas bị nhà Buya thao túng như tình cảnh vua Lê chúa Trịnh ở Việt Nam.
Khoảng năm 1055, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ là Toghrul Bey[3] chinh phục được nhiều nước ở Trung Á, Afghanistan, Pakistan và Iran. Nhà Abbas đón ông vào Bagdad, diệt nhà Buya, và phong ông chức Sultan. Từ đó chức sultan giữ vai trò trên phò khalip, dưới thống lĩnh chư hầu. Tại Bagdad, các sultan cũng kế tục các đại êmia trong thói quen áp chế khalip.
Từ năm 1096, những lớp Thập Tự Quân từ châu Âu sang chiếm nhiều vùng đất ở Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Liban và Palestin, và từ đó mở những cuộc tấn công vào Iraq và Ai Cập. Đến thập niên 1170, Saladin thống nhất được Ai Cập, Palestin và Nam Syria và quy tụ được các chư hầu chống với Thập Tự Quân. Ông được khalip nhà Abbas phong chức sultan. Đến thập niên 1190, vua xứ Delhi miền bắc Ấn Độ cũng lấy chức sultan.
Năm 1258, quân Mông Cổ, do Húc Liệt Ngột (Hulagu) thống lĩnh, vào chiếm Baghdad và chấm dứt nhà Abbas.
Năm 1260, bước tiến của Mông Cổ bị sultan xứ Ai Cập chặn đứng trên đất Palestin trong trận Ain Jalut. Năm sau, một hậu duệ của nhà Abbas là Ahmad được rước về tôn làm khalip ở Cairo. Nhà Abbas lại tiếp tục được hơn 250 năm nữa. Nhiều sử gia gọi nhà Abbas trong giai đoạn này là "triều đại bóng mờ". Trong thời gian này, các vị khalip chỉ còn giữ vai trò về dẫn đầu nghi lễ và một ít vấn đề tôn giáo.
Năm 1517, sultan xứ Thổ Nhĩ Kỳ là Selim I chiếm Ai Cập, và đem vị khalip cuối cùng của Cairo về thủ đô Constantinopolis.
Năm 1299, nhà Ottoman lập quốc tại Thổ Nhĩ Kỳ, có các vua xưng sultan. Họ nhanh chóng trở thành một triều đại hùng mạnh, có lãnh thổ trên hai châu Á-Âu. Mehmed II (1451 - 1481) chiếm được Đông La Mã và đã tự xưng là khalip trong khi "triều đại bóng mờ" còn tồn tại ở Ai Cập. Nhưng đến năm 1517, tại Constantinopolis, khi Selim I ép vị khalip cuối cùng của nhà Hậu Abbas là Al-Mutawakkil III nhường ngôi cho mình thì chức khalip nhà Ottoman mới được hợp thức hóa.
Đế quốc Ottoman năm 1683Tuy nhiên, nhà Ottoman không dùng tước hiệu khalip một cách liên tục. Các vị vua của triều đại này dùng các tước hiệu Padishah ("Vương Chủ" theo tiếng Ba Tư) và "Đại Sultan" đều đặn hơn.
Theo học giả Barthold, lần đầu tiên chức khalip nhà Ottoman được một thế lực lớn nước ngoài công nhận là năm 1774. Năm ấy, khalip nhà Ottoman là Abdul Hamid I ký hoà ước với đế quốc Nga, và nhượng cho đế quốc Chính thống giáo phương Đông này nhiều vùng đất đông tín đồ Hồi giáo như Krym phía bắc Biển Đen. Bù lại, đế quốc Nga công nhận ông là người bảo vệ cho các tín đồ Hồi giáo trên đất Nga.
Từ khoảng năm 1780, nhà Ottoman đã yếu so với các đế quốc châu Âu, nhưng lại là thế lực độc lập mạnh nhất của người Hồi giáo. Chức khalip của Abdul Hamid II được tín đồ Hồi giáo tại Ai Cập, Ấn Độ và Trung Á công nhận.
Năm 1922, đế quốc Ottoman bị truất phế, Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ ra đời. Ngày 3 tháng 3 năm 1924, tại Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ, theo lệnh của tổng thống Mustafa Kemal Atatürk, chức khalip bị tuyên bố bãi bỏ.
Từ 1924 đến nay, một số đoàn thể và cá nhân tín hữu Hồi giáo vẫn kêu gọi sự tái lập chức vị khalip.[4]
Thực đơn
Khalip Những triều đại khalipLiên quan
Khalip Khalid ibn al-Walid Khalid của Ả Rập Xê Út Khalifah Khalid Sheikh Mohammed Khalifa bin Zayed Al Nahyan Khalid (ca sĩ) Khalil Mack Khaliun, Govi-Altai Khai phá dữ liệuTài liệu tham khảo
WikiPedia: Khalip http://www.khilafah.com http://www.caliphate.eu http://www.worldstatesmen.org/Religious_Organizati... http://www.hizb.org.uk